Cuộc sống là gì? mục đích của cuộc sống là gì?
Đó là hai câu hỏi hoàn toàn khác nhau. Khi chúng ta đã biết được cuộc sống là gì rồi thì chúng ta lại tiếp tục đi tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi: Mục đích của cuộc sống là gì?
Rất nhiều người xung quanh mình sống mà không có mục đích, họ chỉ sống như một thực thể sống. Điều  đó thật là vô nghĩa. Khi chúng ta chưa biết được mục đích của cuộc sống của chúng ta thì cũng có nghĩa là chúng ta chưa được sinh ra.
Bởi vì tất cả mọi cuộc sống đều phải có một mục đích sống rõ ràng. cuộc sống cũng như một đường đua vậy, nhưng là đua với thời gian mà thời gian thì không có chờ đợi. Bạn sẽ đi đến đích sớm nếu như bạn xuất phát sớm và ngược lại, nếu bạn xuất phát muộn thì khi thời gian qua đi bạn sẽ cảm thấy hối tiếc rất nhiều điều và nếu như bạn không thể thắng được thời gian thì đó là  lúc mà bạn sẽ phải ân hận.


Vậy mục đích của cuộc sống là gì?
Khi bạn tìm được mục đích của cuộc sống thì đó cũng là lúc mà bạn sẽ cảm nhận được thế nào là một cuộc sống thực sự. Đó cũng chính là thời điểm đánh dấu cho một cuộc sống mới bắt đầu hay nói cách khác đó là thời gian mà bạn thực sự chào đời.
Trở lại với câu hỏi mục đích của cuộc sống . Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta phải trả lời được câu hỏi: Mục đích của cuộc sống tìm ở đâu? Vâng, không phải bất cứ ai khi sinh ra cũng đã xác định được mục đích sống thực sự của đời mình để mà phấn đấu và nỗ lực hết mình. Cũng như khi bạn chưa biết được mình đua đường nào thì làm sao mà có thể chạy được.
Khi còn là một đứa trẻ, chắc hẳn bạn cũng đã được ai đó hỏi "lớn lên cháu sẽ làm gì ?" và câu trả lời có khi là "Con muốn làm bác sỹ", con muốn làm một phi công, con muốn làm một chú công an....
Tất cả đều chỉ là những suy nghĩ thật hồn nhiên và ngây thơ. Nhưng cũng từ những ước muốn trẻ con đó, hồn nhiên đó cộng với những tác động trong cuộc sống về môi trường và điều kiện sống mà một hình ảnh về một thế giới càng được hình thành rõ hơn trong đầu của mỗi con người. Và cái thế giới đó cũng phải đủ lớn để mỗi nguwoif  có thể nhận ra được  mình mong muốn ở vị trí nào trong cái thế giới đó. Thế nhưng, khi mà cái thể giới đó chưa đủ lớn thì bạn sẽ thế nào? lúc đó, bạn sẽ chưa thể có được một sự nhận thức bao quát về thế giới và bạn sẽ không thể xác định được vị trí của bạn trong thế giwois đó.
Mình đã hỏi rất nhiều bạn sinh viên năm cuối đại học rằng: bạn sẽ làm gì sau khi ra trường? mình luôn nhận được một câu trả lời là: "Mình không biết". Đó chính là những người chưa có thế giới quan rõ ràng. 
Đôi khi mục đích cuộc sống cũng đến với bạn rất bất ngờ và rất tình cờ.
Đối với mình thì là những lúc mà mình xem mấy bộ phim về hacker. Thấy người ta ddieuf khiển mọi thứ chỉ bằng một thiết bị cầm tay hay một chiếc máy vitinh mà không cần pohair đi đâu xa. CHỉ việc ngồi đâu đó và nhấn nút. mọi thứ sẽ nghe theo lời bạn. Lúc đó mình rất sung sướng nếu như mình là một ông chủ của những dòng lệnh và hiểu rõ được các hệ điều hành máy tính thì thật tuyệt vời.
Đóp là cơ sở đầu tiên để hình thành nên mục đích sống. Khi mình xem phim, đọc sách, nghe giảng là những lúc mà thế giới quan của mình đang được mở rộng dần cho đến khi mình phát hiện ra rằng ước mơ thật sự của mình là công nghệ thông tin. thì cũng là lúc mà mình khanrgd định được mục đích sống. ĐÓ là trở thành một Quản trị mạng giỏi, một chuyên gia IT có thể kiểm soát được hệ thống của mình xây dựng dù đi bất cứ đâu.
Mình hoàn toàn không phải là người từ khi sinh ra đã có những khả năng về ca hát, nhảy múa, nhưng ít ra thì mình cũng yêu thích cái gì đó và mình bắt đầu tìm tòi nó, trau dồi nó. Và mình chắc chắn rằng ai cũng có một niềm yêu thích cái nào đó và không nhát thiết là có năng khiếu. Chỉ cần một điều duy nhất đó là đam mê. Đam mê là cái mà mình khát khao để trở thành người như trong trí tưởng tượng của bạn. Điều đó sẽ giúp cho bạn vượt qua được tất cả mọi trở ngại trong cuộc sống.
Bác Hồ có bài thơ
"Không có việc gì khó
chỉ sợ lòng không bền
đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt sẽ làm nên"
Mỗi khi mà mình cảm thấy chán nản, hạ quyết tâm thì mình lại nhớ đến bài thơ đó của bác. Nó là một điều mà mình cho rằng đó là chân lý.
Bây giờ hãy quay trở lại với câu hỏi, mục đích sống tìm ở đâu? Đó chính là nó ở trong mọi hoạt động của cuộc sống. Hãy hoạt  động thật nhiều để sớm tìm ra được mục đích sống cho bạn. 
"NGHE THẬT NHIỀU - ĐỌC THẬT NHIỀU - LÀM THẬT NHIỀU"
Còn mục đích sống là gì? Nó chính là niềm đam mê, yêu thích, khát khai cháy bỏng không bao giờ bị mất đi.


Xem tiếp
Người đăng: Unknown on Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013
0 nhận xét
categories: | edit post

1. Chia mạng con là gì và tại sao lại phải chia mạng con?
Như chúng ta biết thì nguồn tài nguyên Ipv4 đã cạn kiệt nhưng đến nay nó vẫn rất phổ biến. Trong khi đó, chẳng hạn như mỗi lớp mạng A có đến 224 – 2 = 16.777.214 địa chỉ IP hay lớp B có 216 – 2 = 65534 địa chỉ IP, một con số mà khó một hệ thống mạng nào đạt đến số lượng máy tính như thế. Điều này gây lãng phí không gian địa IP chỉ rất lớn. Do đó vấn đề đặt ra là phải chia từng lớp mạng này thành những lớp mạng nhỏ hơn có số IP phù hợp với nhu cầu sử dụng hợp lý. Sự phân chia này giúp người quản trị dễ dàng hơn trong việc quản lý, tiết kiệm địa chỉ IP, tránh đụng độ và bảo mật dữ liệu đồng thời giảm tải cho các thiết bị định tuyến đó là chia mạng con.
Xét về mặt thực tiễn ban đầu khái niệm chia mạng con (Subnetting) ra đời chủ yếu dùng để phân chia lớp mạng A và B, sau dần nó trở thành một bài toán lý thuyết mà tất cả các bạn học và làm nghề quản trị mạng phải biết.
Vậy chia mạng con (subnetting) là gì? Hiểu một cách nôm na chia mạng con là những kỹ thuật phân chia lại không gian địa chỉ của một lớp mạng cho trước thành nhiều lớp mạng nhỏ hơn bằng cách lấy một số bit ở phần Host ID để làm địa chỉ mạng cho mạng con (Subnet). Ví dụ với lớp B.

NET
WORK
SUBNET
HOST




Và để hiểu hơn về subnetting, trước hết chúng ta cần tìm hiểu vài khái niệm sau:

Prefix length: Là đại lượng, chỉ số bit dùng làm địa chỉ mạng. Chẳng hạn lớp C có Prefix length là 24. Với một địa chỉ IP tiêu chuẩn prefix length là giá trị sau dấu /. Chẳng hạn 192.168.1.1 /24. Ta có bảng tương ứng như sau:
Lớp
Prefix length
Địa chỉ IP tiêu chuẩn
A
8
10.10.10.10 /8
B
16
172.168.1.1 /16
C
24
192.168.1.1 /24

Default Mask (Network Mask): là giá trị trần của mỗi lớp mạng A, B, C (ở đây ta không xét các lớp D, E) và là giá trị thập phân cao nhất (khi tất cả các bit ở Network Address bằng 1 và các bit ở Host Address bằng 0). Như vậy Default Mask của
Lớp
Default Mask
Default Mask
A
255.0.0.0
11111111.00000000.00000000.00000000
B
255.255.0.0
11111111.11111111.00000000.00000000
C
255.255.255.0
11111111.11111111.11111111.00000000

Subnet MaskGiá trị trần của mạng con, là giá trị thập phân tính khi tất cả các bit của prefix length bằng 1 và phần còn lại bằng 0. Chẳng hạn địa chỉ IP 172.16.1.46 /26 có Subnet Mask là 255.255.255.192 (11111111.11111111.11111111.11000000)
Subnet Address của một địa chỉ IP cho trước là giá trị nhỏ nhất của dải địa chỉ mạng con mà IP đó thuộc về. Các thiết bị định tuyến dựa vào địa chỉ này để phân biệt các mạng con với nhau. Giá trị của địa chỉ mạng có thể được tính bằng nhiều cách. Cách cơ bản nhất là dùng phép AND giữa địa chỉ Subnet Mask và IP dưới dạng nhị phân. Chẳng hạn với địa chỉ 172.16.1.224 /26
Subnet Mask11111111111111111111111111000000
IP Address10101100000100000000000111100000
AND10101100000100000000000111000000
Subnet Address172161192

Broadcast Address của một mạng con là địa chỉ IP cao nhất của mạng đó. Subnet Address và Broadcast Address không dùng để gán cho máy chủ và host. Vì vậy mới có công thức tính số IP khả dụng là 2n – 2 với n là số bit dùng cho Host Address.
Fixed length subnet mask (FLSM), là kỹ thuật chia mạng con theo độ dài subnet cố định dựa trên nhu cầu đường mạng Network ID. Cách chia này sẽ ít sử dụng nhưng nó đơn giản và cơ bản mà mình nghĩ chúng ta nên tìm hiểu qua.
Khái niệm cuối cùng và quan trọng nhất trong ứng dụng phân chia mạng con thực tiễn là VLSM (Variable Length Subnet Mask) là kỹ thuật sử dụng các Subnet Mask khác nhau để tạo ra các Subnet có lượng IP khác nhau. Với kỹ thuật này một quản trị mạng có thể chia mạng con với lượng IP phù hợp nhất với yêu cầu từng mạng, dễ dàng mở thêm các mạng con về sau này và nó tiết kiệm địa chỉ IP một cách tối đa nhất.
------------------------------------------------------**********----------------------------------------------------------

2. Chia mạng con theo phương pháp FLSM
Sau khi xác định network ID ở bài trước và tìm hiểu một số khái niệm liên quan đến kỹ thuật chia mạng con như trên, bây giờ Coj sẽ chia sẻ với các bạn cách chia mạng con (subnet mask) từ một mạng cho trước theo phương pháp Fixed length subnet mask(FLSM), nghĩa là chia theo độ dài subnet cố định dựa trên nhu cầu đường mạng Network ID. Cách chia này sẽ ít sử dụng nhưng nó đơn giản và cơ bản mà mình nghĩ chúng ta nên tìm hiểu qua.

START!!!

Chúng ta đã biết IP gồm 4byte được chia thành 3Class và đây là netmask mặc định của từng Class.
LớpDạng nhị phânNetmask
A11111111 00000000 00000000 00000000255.0.0.0
B11111111 11111111 00000000 00000000255.255.0.0
C11111111 11111111 11111111 00000000255.255.255.0
Cách chia mang con. Với FLSM, để chia mạng con ta chỉ quan tâm đến số đường mạng cần chia. Ví dụ ta có đường mạng 192.168.1.0 /24 cần chia ra 4 đường mạng con. Các bước làm như sau:
Phân tích cấu trúc của địa chỉ 192.168.1.0 như sau:
+ Địa chỉ NetMask: 255.255.255.0 viết tắt /24
+ Dạng nhị phân: 11111111.11111111.11111111.00000000
+ Network ID: 11111111.11111111.11111111
+ HostID: 00000000
Xác định số Bit làm Network cần mượn.
Ta có công thức: 2x >= m (với m là số đường mạng cần chia, x là số bit cần mượn).
Ở đây 2x >= 4 vậy x=2. Ta sẽ mượn 2 bit ở phần HostID làm đường mạng. Sau khi mượn xong ta sẽ có Subnet mask cho các đường mạng con.
+ Địa chỉ SubNetMask: 255.255.255.192 viết tắt /26 (do mượn thêm 2 bit từ HostID)
+ Dạng nhị phân: 11111111.11111111.11111111.11000000
+ Network ID: 11111111.11111111.11111111.11
+ Host ID: 000000
Giải thích: Câu hỏi đặt ra là Subnet mask 255.255.255.192 ở đâu ra?
Ở đây ta đang xét đường mạng 192.168.1.0 thuộc lớp C. Do đó 3 byte đầu 255.255.255 ta không bàn tới vì nó là subnet mặc định của lớp C. (vì 8bit là 1 ~ 255) mà ta chỉ phân tích byte thứ 4. Do ta mượn thêm 2 bit làm NetworkID nên ở byte thứ 4 sẽ là 11000000. Theo bảng dưới ta có giá trị 192 = 128 + 64
Bit thứ
8
7
6
5
4
3
2
1
Giá trị Bit
1
1
0
0
0
0
0
0
Netmask
128
192
224
240
248
252
254
255
Để xác định các đường mạng con ta cần tìm “bước nhảy” cho các mạng con: Bước nhảy k = 256 - 192 = 64 => Ta có các mạng con sau:
- Network ID: 192.168.1.0 Netmask: 255.255.255.192 (viết gọn 192.168.1.0/26)
Khoảng IP được sử dụng: 192.168.1.1 -> 192.168.1.62
-  Network ID: 192.168.1.64/26
Khoảng IP được sử dụng: 192.168.1.65 -> 192.168.1.126.
-  Network ID: 192.168.1.128/26
Khoảng IP được sd 192.168.1.129 -> 192.168.1.192.
- Network ID: 192.168.1.192/26
Khoảng IP được sd 192.168.1.193 -> 192.168.1.254
Lưu ý:  Tối đa ta chỉ có thể mượn 6 bit để làm Network vì nhiều hơn thì số bit còn lại cho Host không đủ dùng. Mặc định mỗi Network đã tốn mất 2 IP để làm đường mạng và Broadcast ID. Số IP mỗi đường mạng là 2^6-2 = 62.Vậy nếu đường mạng thứ 3 ta chỉ cần 2 IP thì chia như vậy là quá phí. Để khắc phục ta sẽ chia mạng theo VLSM.
Chúng ta sẽ tìm hiểu về phương pháp chia mạng con VLSM ở bài tiếp theo. Coj mong các bạn chú ý theo dõi. 
Hẹn gặp lại các bạn!

Xem tiếp
Người đăng: Unknown on Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013
3 nhận xét
categories: | edit post

Để các máy tính có thể liên lạc được với nhau qua mạng, chúng ta phải sử dụng cùng 1 ngôn ngữ hay còn gọi là giao thức (protocol). Giao thức là một hệ luật và chuẩn cho phép các máy tính trọng mạng liên lạc với nhau.
TCP/IP là viết tắt của Tranmission Control Protocol (Giao thức điều khiển truyền thông)/ Internet Protocol (Giao thức internet).
TCP/IP có cấu trúc tương tự như mô hình OSI, tuy nhiên để đảm bảo tính tương thích giữa các mạng và sự tin cậy của việc truyền thông trên mạng, bộ giao thức TCP/IP chia thành 2 phần riêng biệt: Giao thức IP sử dụng cho việc kết nối mạng và giao thức TCP để đảm bảo việc truyền dữ liệu một cách tin cậy. Dưới đây là hình ảnh so sánh sự giống và khác nhau giữa 2 mô hình OSI và TCP/IP.
TCP/IP không chỉ gồm 2 giao thức mà thực tế nó là tập hợp của nhiều giao thức. Chúng ta gọi nó là một hệ giao thức (Suite Of Protocol). Bài viết của chúng ta hôm nay tập trung vào bộ giao thức này.
TCP/IP sử dụng mô hình truyền thông 4 tầng (OSI sử dụng  tầng), hay còn gọ là mô hình DoD (Mô hình của bộ quốc phòng mỹ). Các tầng trong mô hình này là:
-          Application layer
-          Transport layer
-          Internet layer
-          Network Interface layer
Mỗi giao thức của TCP/IP đều thuộc một trong 4 tầng này:
1.       Tầng giao diện mạng (Network Interface Layer)
Đây là tầng thấp nhất của mô hình OSI. Tầng này có trách nhiệm đưa dữ liệu tới và nhận dữ liệu từ phương tiện truyền dẫn. Tầng này gồm các thiết bị phần cứng, vật lý chẳng hạn như Card Mạng và Cap Mạng.
1 card mạng chẳng hạn Card Ethernet chứa 1 số HEX 12 ký tự (00-34-AF-03-A5-BE) được gọi là địa chỉ MAC (Media Access Control) hay địa chỉ truy nhập phương tiện. Mac đóng vao trò rất quan trọng trong việc gán địa chỉ và truyền dữ liệu.
Người ta chia lớp giao tiếp mạng thành 2 lớp con là:
-          Lớp vật lý: Lớp vật lú làm việc với các thiết bị vật lý, truyền tới dòng bit 0, 1 từ nơi gửi đến nơi nhận.
-          Lớp liên kết dữ liệu: tại đây dữ liệu được tổ chức thành các khung (frame). Phần đầu khung (header) chứa các địa chỉ và thông tin điều khiển, phần cuối khung dành cho việc phát hiện lỗi.

Một số giao thức tiêu biểu thuộc tầng này gồm:
-          ATM
-          Ethernet
-          Token Ring
-          FDDI (Fiber Distributed Data Interface)
-          Frame Relay
2.       Tầng liên mạng (Internet Layer)
Tầng này nằm trên tầng giao diện mạng. Nhiệm vụ cơ bản của lớp này là xử lý việc liên lạc của các thiết bị trên mạng như gán địa chỉ, đóng gói và định tuyến dữ liệu.
Cơ chế: Nó nhận được một yêu cầu để gửi gói dữ liệu từ lớp cùng với một định danh của máy mà gói dữ liệu phải được gửi đến. Nó đóng Segment vào trong một packet, điền vào phần đầu của packet sau đó sử dụng các giao thức định tuyến để chuyển gói tin đến được đích của nó hoặc trạm kế tiếp. Khi đó tại nơi nhận sẽ kiểm tra tính hợp lệ của chúng, và sử dụng tiếp các giao thức định tuyến để xử lý gói tin. Đối với những packet được xác định thuộc cùng mạng cục bộ, phần mền internet sẽ cắt bỏ phần đầu của packet và chọn một trong các giao thức lớp chuyên trở thích hợp để xử lý chúng. Cuối cùng lớp internet gửi và nhận các thôn điệp kiểm soát và xử lý lỗi ICMP.
Tầng này có 4 giao thức quan trọng đó là:
-          IP (internet Protocol): Có chức năng gán địa chỉ cho dữ liệu trước khi truyền và định tuyến chúng tới đích.
-          ARP (Address Resolution Protocol): Có chức năng biên dịch địa chỉ IP của máy đích thành địa chỉ MAC.
-          ICMP (Internet Control Message Protocol): Co chức năng thông báo lỗi trong trường hợp truyền dữ liệu bị hỏng.
-          IGMP (Internet Group Management protocol): có chức năng điều khiển truyền đa hướng (muticast)
3.       Tầng giao vận (Transport layer)
Có trách nhiệm thiết lập phiên truyền thông giữa các máy tính và quy định cách truyền dữ liệu. 2 giao thức chính trong tầng này gồm:
-          UDP (User Datagram Protocol): còn gọi là Giao thức gói người dùng. UDP cung cấp các kênh truyền thông phải kết nối nên nó không đảm bảo truyền dữ liệu 1 cách tin cậy. Các ứng dụng dùng UDP thường chỉ truyền những gói có kích thước nhỏ, độ tin cậy dữ liệu phụ thuộc vào từng ứng dụng.
-          TCP (tranmission Control Protocol) Ngược lại với UDP, TCP cung cấp các kênh truyền thông hướng kết nối và đảm bảo truyền dữ liệu một cách tin cậy. TCP thường truyền các gói tin kích thước lớn và yêu cầu phía nhận phải xác nhận các gói tin đã nhận.
4.       Tầng ứng dụng (Application layer)
Là tầng cao nhất của mô hình TCP/IP. Gồm nhiều giao thức cung cấp cho các ứng dụng người dùng. Được sử dụng để định dạng và trao đổi thông tin người dùng. 1 số giao thức thông dụng của tầng này là:
-          DHCP (Dynamic Host Configuration Protocol): Giao thức cấu hình trạm động, cho phép server cấp phát địa chỉ IP một cách tự động.
-          DNS (Domain Name System): Hệ thống tên miên
-          SNMP (Simple Network Management Protocol): giao thức quản lý mạng đơn giản
-          FPT (File Transfer System): Giao thức truyền tập tin
-          TFTP (Trivial File Transfer Protocol): Giao thức truyền tin bình thường
-          SMTP (Simple Mail Transfer Protocol): Giao thức truyền thư đơn giản.
-          Telnet: Ứng dụng cho phép đăng nhập hệ thống từ xa.
Bảng mô tả cấu trúc Bộ giao thức TCP/IP:

Chúc các bạn học tập vui vẻ và hiệu quả!

Xem tiếp
Người đăng: Unknown on
0 nhận xét
categories: | edit post

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ vi mạch tích hợp là động lực không nhỏ vào sự phát triển của các hệ thống mạng máy tính. Nhưng có một bất cập là mỗi hệ thống lại sử dụng những chuẩn phần cứng và phần mềm riêng của mình. Những điều đó khiến cho việc kết nối giữa những hệ thống này với nhau gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO đã đề xuất ra một mô hình mà các nhà thiết kế
mạng có thể dựa vào đó để thiết lập các hệ thống có khả năng tương thích với nhau, đó chính là mô hình tham chiếu OSI (Open System Interconnection Reference Model). Chúng ta cần chú ý rằng mô hình OSI chỉ là mô hình tham chiếu chứ không phải là một mạng cụ thể nào. Các nhà thiết kế mạng sẽ nhìn vào mô hình OSI để biết công việc thiết kế của mình đang nằm ở đâu.
Việc nghiên cứu mô hình OSI được bắt đầu vào năm 1971 tại ISO nhằm tới việc kết nối các sản phảm của các hãng sản xuất khác nhau và phối hợp các hoạt động chuẩn hoá trong các lĩnh vực viễn thông và hệ thống thông tin. Đến năm 1984, mô hình tham chiếu OSI chính thức được đưa ra giới thiệu.
Mô hình OSI phân chia chức năng của một giao thức ra thành một chuỗi các tầng cấp. Mỗi một tầng cấp có một đặc tính là nó chỉ sử dụng chức năng của tầng dưới nó, đồng thời chỉ cho phép tầng trên sử dụng các chức năng của mình. Một hệ thống cài đặt các giao thức bao gồm một chuỗi các tầng nói trên được gọi là "Chồng giao thức" (protocol stack). Chồng giao thức có thể được cài đặt trên phần cứng, hoặc phần mềm, hoặc là tổ hợp của cả hai. Thông thường thì chỉ có những tầng thấp hơn là được cài đặt trong phần cứng, còn những tầng khác được cài đặt trong phần mềm.
Là một mô hình kiến trúc OSI gồm 7 lớp, mỗi lớp đều có chức năng mạng xác định như: gán địa chỉ, điều khiển luồng, đóng gói và truyền gói tin một cách tin cậy trên mạng.
 
Các ưu điểm của việc sử dụng mô hình OSI đó là:
-      Tách hoạt động thông tin trên mạng thành những phần nhỏ hơn, đơn giản hơn.
-      Nó chuẩn hoá các thành phần mạng để cho phép phát triển một mạng từ nhà cung cấp sản phẩm.
-      Cho phép các loại phần cứng và phần mềm khác nhau và thông tin được với nhau.
-      Cho phép người thiết kế môn hoá và phát triển chức năng theo kiểu modul.
-      Nó giúp cho việc học tập về mạng được dễ dàng hơn.
Tầng 1: Lớp Vật lý (Physical Layer)
Lớp vật lí trong OSI định nghĩa tất cả các đặc tả về điện và vật lý cho các thiết bị. Trong đó bao gồm bố trí của các chân cắm (pin), các hiệu điện thế, và các đặc tả về cáp nối (cable). Các thiết bị tầng vật lí bao gồm Hub, bộ lặp (repeater), thiết bị tiếp hợp mạng (network adapter) và thiết bị tiếp hợp kênh máy chủ (Host Bus Adapter) - (HBA dùng trong mạng lưu trữ (Storage Area Network)). Chức năng và dịch vụ căn bản được thực hiện bởi tầng vật lý bao gồm:
-      Thiết lập hoặc ngắt mạch kết nối điện (electrical connection) với một phương tiện truyền thông (transmission medium).
-      Tham gia giải quyết tranh chấp tài nguyên (contention) và điều khiển lưu lượng.
-      Điều biến (modulation), hoặc biến đổi giữa biểu diễn dữ liệu số (digital data) của các thiết bị người dùng và các tín hiệu tương ứng được truyền qua kênh truyền thông (communication channel).
Tầng 2: Lớp Liên kết dữ liệu (Data link Layer)
Lớp liên kết dữ liệu trong OSI cung cấp các phưng tiện để truyền thông tin qua lớp vật lý đm bo độ tin cậy thông qua các cơ chế đồng bộ, kiểm soát lỗi và kiểm soát luồng dữ liệu.
Ngoài ra, lớp liên kết dữ liệu còn được chia làm 2 lớp con là:
+ MAC (Media Access Control).
+ LLC (Logical Link Control).
Các chức năng của lớp 2 gồm: tạo khung dữ liệu để truyền trên các đường vật lý, truy nhập các phưng tiện vật lý nhờ các địa chỉ MAC, phát hiện lỗi nhưng không sửa được lỗi.
Tầng liên kết dữ liệu chính là nơi các cầu nối (bridge) và các thiết bị chuyển mạch (switches) hoạt động.
Tầng 3: Lớp mạng (Layer Network)
Lớp mạng được các nhà chuyên gia đánh giá lớp phức tạp nhất trong tất cả các lớp trong mô hình OSI. Lớp mạng cung cấp phương tiện để truyền các đơn vị dữ liệu qua mạng hay liên mạng. Bởi vậy, nó phải đáp ứng nhiều kiểu cấu hình mạng và nhiều dich vụ cung cấp bởi các mạng khác nhau. Các dịch vụ và giao thức cho lớp mạng phải phản ánh được tính phức tạp đó. Hai chức năng chủ yếu của lớp mạng đó là:
+Định tuyến (Routing).
+Chuyển tiếp (Relaying).
Mỗi node trong mạng đều phải thực hiện các chức năng này, do đó, chúng phải ở trên lớp liên kết dữ liệu để cung cấp một dịch vụ “trong suốt” đối với lớp giao vận.
Công nghệ IP là một công nghệ tiêu biểu và ưu việt nhất của lớp mạng cho nên, hiện tại và tương lai các công nghệ ở các lớp khác đều phải tiến tới cải tiến để tối ưu trong sự liên lạc với IP. Ví dụ điển hình của giao thức tầng 3 là giao thức IP, RIP, OSPF, IPX, AppleTalk.
Tầng 4: Lớp giao vận (Transport Layer)
Trong mô hình OSI, 4 lớp thấp quan tâm đến việc truyền dữ liệu qua hệ thống đầu cuối (end systems) qua các phưng tiện truyền thông còn 3 lớp cao tập trung đáp ứng các yêu cầu và các ứng dụng của người sử dụng. Lớp giao vận là lớp cao nhất của 4 lớp thấp, nhiệm vụ của nó la cung cấp dịch vụ truyền dữ liệu sao cho các chi tiết cụ thể của các phưng tiện truyền thông được sử dụng ở dên dưới trở nên “trong suốt” đối với các lớp cao. Do đó nhiệm vụ của lớp giao vận rất phức tạp. Nó phải được tính đến khả năng thích ứng với một phạm vi rất rộng các đặc trưng mạng. Chẳng hạn, một mạng có thể là “connection-oriented” hay “connectionless”, có thể là đáng tin cậy (reliable) hay không đáng tin cậy (unreliale). Nó phải biết được yêu cầu về chất lượng dịch vụ của người sử dụng đồng thời, cũng phải biết được khả năng cung cấp dịch vụ của mạng bên dưới.
Ở tầng 4 địa chỉ được đánh là address ports, thông qua address ports để phân biệt được ứng dụng trao đổi. Các giao thức phổ biến là TCP, UDP và SPX.
Tầng 5: Lớp phiên (Session Layer)
Nhiệm vụ của lớp phiên là cung cấp cho người sử dụng các chức năng cần thiết để quản trị các “phiên” ứng dụng của họ, cụ thể như sau:
Điều phối việc trao đổi dữ liệu giữa giữa các ứng dụng bằng cách thiếp lập và giải phóng (một cách logic) các phiên (hay còn gọi là các hội thoại-dialogues).
Cung cấp các điểm đồng bộ hoá để kiểm soát việc trao đổi dữ liệu.
Áp đặt các quy tắc cho các tương tác giữa các ứng dụng của người sử dụng.
Cung cấp cơ chế nắm quyền trong quá trình trao đổi dữ liệu.
Việc trao đổi dữ liệu có thể được thực hiện theo 1 trong 2 phương thức:
+ Bán song công
+ Song công
Tóm lại, nhiệm vụ của lớp phiên là thiết lập, quản lý và kết thúc các phiên giao tiếp giữa các thực thể lớp trình bày.
Tầng 6: Lớp trình diễn (Presentation Layer)
Mục đích của lớp trình diễn là đảm bảo cho các hệ thống đầu cuối có thể truyền thông có kết quả ngay cả khi chúng sử dụng các cách biểu diễn dữ liệu khác nhau.
Tầng 7: Lớp ứng dụng (Application Layer)
Lớp ứng dụng là lớp gần gũi với người dùng hơn hết, nó cung cấp các dịch vụ mạng cho các ứng dụng của người dùng.
Là lớp cao nhất trong mô hình OSI, cho nên lớp ứng dụng có một số đặc điểm khác với các lớp dưới nó. Trước hết, nó không cung cấp một dịch vụ cho một lớp trên nào như các lớp bên dưới. Do đó ở lớp không có khái niệm điểm truy nhập lớp dịch vụ. Lớp ứng dụng là ranh giới giữa môi trường nối kết các hệ thống mở và các tiến trình ứng dụng (Application Process). Các tiến trình ứng dụng thuộc các hệ thống mở khác nhau muốn trao đổi thông tin phải thông qua tầng ứng dụng thuộc các hệ thống mở khác nhau. Một số ví dụ về các ứng dụng trong tầng này bao gồm Telnet, Giao thức truyền tập tin FTP và Giao thức truyền thư điện tử SMTP, HTTP, X.400 Mail remote.

Chúc các bạn học tập vui vẻ . Thân chào!

Xem tiếp
Người đăng: Unknown on
0 nhận xét
categories: | edit post

Địa chỉ IP là một chuyên đề quan trọng trong chương trình đào tạo chuyên viên mạng. Để có thể theo học tốt chương trình quản trị mạng đồng thời vượt qua được các kỳ thi quốc tế và theo học các chứng chỉ cao cấp thì các bạn phải nắm vững các kiến thức liên quan đến địa chỉ IP. Ở bài này, coj cung cấp những khái niệm cốt lõi về địa chỉ IP.
1. Kiến thức cần nhớ
-       Chuyển đồi từ số thập phân sang số nhị phân : Nguyên tắc của phương pháp này là lấy số cần chuyển đổi chia cho 2 (kết quả chỉ lấy phần nguyên), sau đó tiếp tục lấy kết quả chia 2 (và cũng chỉ lấy phần nguyên), kết quả số nhị phân thu được là tập hợp các số dư của các phép chia.
VD: 7 <==> 111; 10 <==>1010; 32 <==> 100000
-       Chuyển đổi nhị phân (Binary) sang thập phân (Decimal): Chúng ta đánh số thứ tự các bit của dãy số nhị phân theo thứ tự từ phải sang trái  Để dễ hiểu chúng ta xét ví dụ sau:
VD: chúng ta chuyển số 1000111 về số thập phân. Ta thấy số 1000111 có tổng cộng 7 kí tự, chúng ta sẽ đánh số 7 kí tự này từ phải sang trái và bắt đầu từ 0 như sau:
Số nhị phân
1
0
0
0
1
1
1
Thứ tự
6
5
4
3
2
1
0
Số thập phân kết quả sẽ là tổng các tích của kí tự nhị phân x 2 lũy thừa vị trí. Tức là  1×2^6 + 0×2^5 + 0×2^4 + 0×2^3 + 1×2^2 + 1×2^1 + 1×2^0= 64 + 0 + 0 + 0 + 4 + 2 + 1 = 71
-       Với n bit nhị phân, ta có thể thiết lập được 2^n số nhị phân n bit. Vói giá trị thập phân tương ứng chạy từ 0 đến 2^n -1.Ví dụ:Với n=3, ta lập được 2^3=8 số nhị phân 3 bit chạy từ 0 đến 7.000, oo1, 010, 011, 100, 101, 110, 111.Với n=4, ta lập được 2^4 = 16 số nhị phân 4 bit chạy từ 0 đến 15.

2. Địa chỉ IP là gì?
Địa chỉ Ip là địa chỉ Logic được sử dụng trong giao thức IP của lớp internet thuộc mô hình TCP/IP ( tương ứng với lớp network trên mô hình OSI)

3. Cấu trúc địa chỉ IP
- Địa chỉ IP gồm 32 bit nhị phân và được chia thành 4 octet  (1 octet = 8 bit). Các Octet được biểu diễn dưới dạng thập phân và được ngăn cách nhau bằng dấu chấm (.).
- Địa chỉ IP được chia thành 2 phần: Network và Host.
- Việc đặt địa chỉ IP phải tuân theo quy tắc:
+  Các bit phần Network không được đồng thời bằng 0
+  Nếu các bit phần Host đồng thời bằng 0 thì ta có 1 địa chỉ Network
VD: Địa chỉ 192.168.1.1 là một địa chỉ có thể gán cho host nhưng địa chỉ 192.168.1.0 là một địa chỉ mạng và nó không thể gán cho host được.
+ Nếu các bit phần host đồng thời bằng 1 ta sẽ có 1 địa chỉ Broadcast (địa chỉ quảng bá). Các bạn có thể hình dung như thế này nhé: Khi đặt 1 host là giống như đặt địa chỉ cho 1 căn nhà. mà địa chỉ căn nhà bao giờ cũng có số nhà và con đường, thì trong địa chỉ IP phần Network là con đường và host là số nhà. Trong khi đó địa chỉ broadcast là 1 địa chỉ quảng bá, nó không đại diện cho 1 host cụ thể nào mà nó đại diện cho tất cả các host trong mạng.
VD: Địa chỉ 192.168.1.255 là một địa chỉ broadcast nó đại diện cho tất cả các host trong mạng 192.168.1.0

4. Các lớp địa chỉ IP
Địa chỉ IP chia thành 5 lớp.
4.1. Lớp A
- 8 bit đầu dung để định danh phần network và 24 bit sau để định danh phần host
- Theo quy ước: Bit đầu tiên của lớp A luôn bằng =0 do đó phần mạng chỉ có 7 bit.
==> có tổng cộng 2^7 -1 =127 mạng
==> mạng lớp A sẽ có: 1.0.0.0 -> 127.0.0.0 (trong đó mạng 127.0.0.0 được dùng làm mạng loopback)
==>Lớp A có 126 mạng.
==> Số host: Phần host của lớp A có 24 bit do đó nó có 2^24-2 host
Ví dụ: 1.0.0.1, 10.0.0.2, 126.0.0.1 …. là các địa chỉ lớp A
4.2. Lớp B
- 16 bit đầu để định danh cho Mạng và 16 bit đầu để định danh cho host
- Theo quy ước: có 2 bit đầu luôn được giữu cứng là bit 10. còn 14 bit sau chạy tự do để định danh cho địa chỉ mạng của lớp B.
==> số mạng trong lớp B là 2^14 mạng (do mạng đầu khác 0 rồi)
Mạng đầu tiên là: 128.0.0.0
Mạng cuối là: 191.255.0.0
Số Host của lớp B: 2^16-2 host. (trừ host đầu là địa chỉ mạng, host cuối cùng là broadcast).
4.3. Lớp C
-       Sử dụng 3 octesst đầu là phần mạng và 1 octest sau là phần host
-       Theo quy ước: 3 bit đầu luôn là: 110. Do đó địa chỉ mạng lớp c chạy từ: 192.0.0.0 -> 223.255.255.0
-       Phần host cso 8 bit => có 2^8-2 host.
4.4. Lớp D
- Không sử dụng cho host. chạy từ 224.0.0.0 – 239.255.255.255.255
- Được dùng làm địa chỉ Mutilcast
VD:    224.0.0.5 dùng cho OSPF
224.0.0.9 dùng cho RIPv2
4.5. Lớp E
Từ 240.0.0.0 trở đi để dùng cho mục đích dự phòng.Vậy ta có thể tóm lại các lớp của địa chỉ IP như sau:- Các lớp địa chỉ IP có thể sử dụng để đặt cho các host là các lớp A, B, C.- Để thuận tiện cho việc nhận diện 1 địa chỉ IP thuộc lớp nào thì chúng ta quan sát octet đầu tiên của địa chỉ IP, nếu Octet này có giá trị:
1 – 126 : địa chỉ lớp A
128 – 191 : địa chỉ lớp B
192 – 223: địa chỉ lớp C
224 – 239: địa chỉ lớp D
240 – 255 : địa chỉ lớp E
5. Địa chỉ Private và Public
Địa chỉ Ip được chia thành 2 loại: Private và public
-       Địa chỉ Private
  • Chỉ được sử dụng trong mạng nội bộ (LAN), không được định tuyến trên môi trường Internet.
  • Có thể được sử dụng lặp đi lặp lại trong các mạng LAN khác nhau.
  • Dải địa chỉ IP private được quy định trong RFC 1918:
Lớp A: 10.x.x.x
Lớp B: 172.16.x.x ==> 172.31.x.x
Lớp C: 192.168.x.x
  • Địa chỉ Private được sử dụng để bảo tồn địa chỉ Public.
-       Địa chỉ Public: là địa chỉ IP được sử dụng cho gói tin đi trên môi trường internet và được định tuyến trên môi trường internet, không sử dụng trong mạng LAN. Địa chỉ Public là duy nhất cho mỗi host khi tham gia vào internet.
-       Khi một địa chỉ Private muốn tham gia vào internet thì nó phải được biến đổi thành địa chỉ Public. Do đó cần phải có 1 phương thức để chuyển đổi qua lại giữa địa chỉ Public và địa chỉ Private, giao thức đó là NAT.

6. Địa chỉ Broadcast
Có 2 loại địa chỉ Broadcast đó là Local và Direct
-       Local: Khi một địa chỉ trong mạng nội bộ (vd: 192.168.2.0) muốn gửi broadcast cho tất cả các host trọng mạng nội bộ của mình thì nó sẽ gửi đến địa chỉ 255.255.255.255.
-       Direct : Xét một máy có địa chỉ Ip là 172.16.1.1 chẳng hạn. Khi máy này gửi broadcast đến 255.255.255.255, tất cả các máy thuộc mạng 172.16.1.0 sẽ nhận được broadcast này. Còn nếu nó gửi Broadcast đến địa chỉ 172.16.2.255 thì tất cả các máy thuộc mạng 172.16.2.0 sẽ nhận được gói Broadcast và các máy thuộc mạng 172.16.1.0 sẽ không nhận được gói tin này.

Cảm ơn các bạn đã quan tâm. Chúc các bạn vui vẻ!

Xem tiếp
Người đăng: Unknown on
0 nhận xét
categories: | edit post
Được tạo bởi Blogger.