- Khi người dùng đã logon , một bản sao của profiles của họ sẽ được lưu lại trên máy tính mà họ đã đăng nhập, điều này tạo ra vấn đề về nguy cơ bảo mật.
- Thời gian đăng nhập cũng là một vấn đề, nếu người dùng đặt quá nhiều dữ liệu trong profiles của họ, có thể sẽ phải chờ đợi rất lâu khi đăng nhập hoặc tắt một máy tính.
- Kèm theo đó với profile lớn còn chiếm nhiều băng thông để truyền dữ liệu qua lại, phần login trong số này là lượng băng thông bị lãng phí bởi nhiều tập tin và dữ liệu được tải đồng bộ tuy nhiên người dùng lại không dùng đến.
Công thức tính là 2^n và 2^m -2
-Để tính tổng số subnet có được sau khi chia ta dùng công thức 2^n, trong đó n là số bit mượn để chia subnet trong octet đó (mượn làm network id).
-Để tính tổng số host/subnet ta dùng công thức 2m-2, trong đó m là tổng số bit còn lại dùng làm host sau khi đã mượn . Ta phải trừ 2 vì cần bỏ địa chỉ subnet id và broadcast.
Nói sơ sơ qua cách tính truyền thống như vậy thôi, giờ chúng ta tìm hiểu cách nhẩm nhanh bằng cách đếm lóng tay nhé!
Đầu tiên các bạn xòe bàn tay trái ra và đếm theo hình:
Đếm theo số màu đen nhé!
Các bạn để ý bàn tay chúng ta có tất cả 14 lóng tay, mỗi lóng tay tương trưng cho 1 bit nhé! ^^
Đếm 2 4 8 16 32 64 128 256 512 1024 2048 4096 8192 16384.
Đếm đi đếm lại cho thuộc đi nhé các bạn.
- Để tính tổng số lượng Subnet id có được sau khi chia, ta đếm số bit mượn làm subnet id trong octet đó là ra. Mượn 3 bit thì đếm 2 4 8, mượn 4 bit thì đếm 2 4 8 16, giá trị của bit đếm sau cùng chính là tổng số subnet id sau khi được chia ra.
Ví dụ: 10.10.0.0 /13 ---> mượn 5 bit ---> đếm 2 4 8 16 32. Vậy mạng này có 32 subnet.
- Để tính bước nhảy trong mỗi subnet id. Ta đếm số bit còn lại dùng làm host trong riêng octet đó. Giá trị của bit được đếm sau cùng cũng là giá trị của bước nhảy trong octet đó.
Ví dụ: 172.35.0.0/19. Tức là địa chỉ lớp B sẽ mượn 3 bit ở octet thứ 3 làm subnet id. Dùng phương pháp đếm ta có 2 4 8, đủ 3 bit mượn rồi, vậy tổng số subnet id là 8. Ta biết trong octet thứ 3 sau khi cho mượn 3 bit làm net id thì còn lại 5 bit làm host, vậy ta đếm 2 4 8 16 32, đủ 5 bit rồi, giá trị là 32, và cũng chính là bước nhảy của subnet id., thử xem nào:
-172.35.0.0/19
-172.35.32.0/19
-172.35.64.0/19
-172.35.96.0/19
-172.35.128.0/19
-172.35.160.0/19
-172.35.192.0/19
-172.35.224.0/19
Ta có tổng cộng 8 subnet id, với bước nhảy là 32.
- Để tính địa chỉ broadcast của một subnet id ta lấy subnet id kế tiếp giảm 1. Ví dụ, để tính broadcast của subnet id 172.35.64.0/19, ta lấy subnet id kế tiếp là 172.35.96.0/19 giảm 1 == 172.35.95.255/19 đây chính là broadcast của subnet id 172.35.64.0
- Để tính số host trong một subnet, ta đếm toàn bộ số bit host còn lại trong subnet và lấy giá trị bit sau cùng đó -2, Lưu ý là không phân biệt octet. Nhắc lại, ta lấy giá trị của bit được đếm sau cùng - 2 ta được số host trong subnet id có thể xài.
Trong ví dụ subnet 172.35.64.0/19, ta nhận biết toàn bộ số bit dùng làm host còn lại là 13. Ta đếm 2 4 8 16 32 64 128 256 512 1024 2048 4096 8192, đủ 13 bit rồi, ok, số host trong mạng sẽ là 8192 -2 = 8190. Vì sao -2, vì ta phải trừ bỏ địa chỉ subnet id và broadcast. Hay đơn giản hơn có thể nhận thấy là số host có thể xài được trong dãy:
172.35.64.1/19 ----> 172.35.95.254/19
Và đống thời nó cũng lọt giữa 2 subnet id và broadcast.
Lưu ý: Phương pháp đếm từ 2 không được dùng để tính tổng số giá trị của 1 octet chạy từ 0->255. Hay nói cách khác là không được dụng để tính tổng giá trị của 1 dãy bit như 10101101. Để tính tổng số giá trị của dãy trên ta phải đếm từ 1, cộng các giá trị có bit 1 với nhau.
Ngoài ra, yêu cầu các bạn cần nhớ và thuộc:
1xxxxxxx =128
11xxxxxx =192
111xxxxx =224
1111xxxx =240
11111xxx =248
111111xx =252
1111111x =254
11111111 =255
và
2^0 = 1
2^1 = 2
2^2 = 4
2^3 = 8
2^4 = 16
2^5 = 32
2^6 = 64
2^7 = 128
2^8 = 256
Các bạn cũng có thể dùng bàn tay phải để ghi nhớ các giá trị trên , dùng nhẩm nhanh subnet mask của mạng.
Mượn 1 bit : 128
Mượn 2 bit : 192
Mượn 3 bit : 224
Mượn 4 bit : 240
Mượn 5 bit : 248
Mượn 6 bit : 252
Mượn 7 bit : 254
Mượn 8 bit : 255
Ví dụ : 10.10.0.0 /13 --mượn 5 bit ---> S/M: 255.248.0.0
155.55.3.32 /28 -- mượn 12 bit = 8 +4 ----> S/M: 255.255.255.240
Nếu các bạn nhuần nhuyễn cách tính này, tôi tin rằng các bạn sẽ tính toán, chia subnet rất nhanh!!
Trong bất kỳ trường hợp nào, để hệ thống mạng làm việc trơn tru, hiệu quả và khả năng kết nối tới
những hệ thống mạng khác đòi hỏi phải sử dụng những thiết bị mạng chuyên
dụng. Những thiết bị mạng này rất đa dạng và phong phú về chủng loại
nhưng đều dựa trên những thiết bị cơ bản là Repeater, Hub, Switch,
Router và Gateway.
Bài viết này sẽ giúp bạn đọc có được một những hiểu biết cơ bản về các thiết bị mạng kể trên:
REPEATER
Repeater là một thiết bị ở lớp 1 (Physical Layer) trong mô hình OSI. Repeater có vai trò khuếch đại tín hiệu vật lý ở đầu vào và cung cấp năng lượng cho tín hiệu ở đầu ra để có thể đến được những chặng đường tiếp theo trong mạng. Điện tín, điện thoại, truyền thông tin qua sợi quang… và các nhu cầu truyền tín hiệu đi xa đều cần sử dụng Repeater.
HUB
Hub có 2 loại là Active Hub và Smart Hub. Active Hub là loại Hub được dùng phổ biến, cần được cấp nguồn khi hoạt động, được sử dụng để khuếch đại tín hiệu đến và cho tín hiệu ra những cổng còn lại, đảm bảo mức tín hiệu cần thiết. Smart Hub (Intelligent Hub) có chức năng tương tự như Active Hub, nhưng có tích hợp thêm chip có khả năng tự động dò lỗi - rất hữu ích trong trường hợp dò tìm và phát hiện lỗi trong mạng.
Ưu điểm của Bridge là hoạt động trong suốt, các máy tính thuộc các mạng khác nhau vẫn có thể gửi các thông tin với nhau đơn giản mà không cần biết có sự "can thiệp" của Bridge. Một Bridge có thể xử lý được nhiều lưu thông trên mạng như Novell, Banyan... cũng như là địa chỉ IP cùng một lúc. Nhược điểm của Bridge là chỉ kết nối những mạng cùng loại và sử dụng Bridge cho những mạng hoạt động nhanh sẽ khó khăn nếu chúng không nằm gần nhau về mặt vật lý
Ngày nay, trong các giao tiếp dữ liệu, Switch thường có 2 chức năng chính là chuyển các khung dữ liệu từ nguồn đến đích, và xây dựng các bảng Switch. Switch hoạt động ở tốc độ cao hơn nhiều so với Repeater và có thể cung cấp nhiều chức năng hơn như khả năng tạo mạng LAN ảo (VLAN).
Ưu điểm của Router: Về mặt vật lý, Router có thể kết nối với các loại mạng khác lại với nhau, từ những Ethernet cục bộ tốc độ cao cho đến đường dây điện thoại đường dài có tốc độ chậm.
Nhược điểm của Router: Router chậm hơn Bridge vì chúng đòi hỏi nhiều tính toán hơn để tìm ra cách dẫn đường cho các gói tin, đặc biệt khi các mạng kết nối với nhau không cùng tốc độ. Một mạng hoạt động nhanh có thể phát các gói tin nhanh hơn nhiều so với một mạng chậm và có thể gây ra sự nghẽn mạng. Do đó, Router có thể yêu cầu máy tính gửi các gói tin đến chậm hơn. Một vấn đề khác là các Router có đặc điểm chuyên biệt theo giao thức - tức là, cách một máy tính kết nối mạng giao tiếp với một router IP thì sẽ khác biệt với cách nó giao tiếp với một router Novell hay DECnet. Hiện nay vấn đề này được giải quyết bởi một mạng biết đường dẫn của mọi loại mạng được biết đến. Tất cả các router thương mại đều có thể xử lý nhiều loại giao thức, thường với chi phí phụ thêm cho mỗi giao thức
Qua Gateway, các máy tính trong các mạng sử dụng các giao thức khác nhau có thể dễ dàng "nói chuyện" được với nhau. Gateway không chỉ phân biệt các giao thức mà còn còn có thể phân biệt ứng dụng như cách bạn chuyển thư điện tử từ mạng này sang mạng khác, chuyển đổi một phiên làm việc từ xa...
Chia mạng con VLSM: Variable length subnet mask.
Bài viết này mình không giải thích nhiều về các khái niệm liên quan đến subnet nữa mà chỉ làm một ví dụ chia subnet cụ thể dựa trên VLSM. Các bạn nên đọc bài FLSM để có khái niệm kĩ hơn.
Công thức:
+ Số subnet được tạo ra: 2m (m: số bit mượn của phần Host ID) (Chú ý: đáng lẽ công thức này phải là 2m – 2 vì phải loại trừ đi 2 mạng đầu tiên – subnet zero và mạng cuối cùng – subnet broadcast, nhưng với các dòng Router hiện nay của Cisco đã hỗ trợ lệnh Router(config)# ip subnet-zero do đó ta vẫn có thể sử dụng 2 mạng đó mà không phải loại trừ bỏ đi)
+ Số host / subnet: 2n– 2 (n: số bit còn lại của phần Host ID sau khi bị mượn m bit)
+ Subnet Mask mới = Subnet Mask cũ + m (là số bit vừa bị mượn)
+ Địa chỉ khả dụng là các địa chỉ IP có thể gán cho mỗi host, thiết bị.
Bài toán:
Một ngày nào đó, sếp thuê được một đường mạng 192.168.1.0/24 từ một ISP (Viettel, Vinaphone, FPT…) và Sếp bảo:
“Từ địa chỉ này cậu hãy chia ra 4 đường mạng con (Subnet) trong đó:
+ Đường thứ nhất dùng 50 PC (subnet 1)
+ Đường thứ 2, 3 dùng cho 10 PC (subnet 2)
+ Đường còn lại dùng 2 PC (subnet 3)
Nhớ tiết kiệm đó!“Nếu bạn thực hiện chia theo FMSL đã nói ở bài trước thì 3 đường mạng sẽ có số IP dùng cho Host bằng nhau như vậy thì quá phí. Với việc chia những subnet mà có số Host chênh lệch thế này thì bạn hãy nghĩ ngay tới phương pháp VLSM. Chúng ta bắt đầu nhé.
Bước 1: Công việc đầu tiên là bạn xác định xem thứ tự sắp xếp từ lớn đến bé trong những đường mạng cần chia, đường mạng nào có số IP host là nhiều nhất. Ở đây là 50.
Bước 2: Theo công thức 2m >= X (với X là số host cần chia, m là số bit cần làm Host ID). Ở đây 2m >=X=50 Suy ra m=6.
Subnet mask lúc này là 11111111.11111111.11111111.11000000 (255.255.255.192/26).
Do ta chỉ dùng 6 bit là Host ID nên thừa 2 bit sẽ dùng làm đường mạng.
Với 2 bit ta sẽ có 4 đường mạng, cách tính đường mạng hãy xem bài FLSM nhé.
- 192.168.1.0/26
- 192.168.1.64/26
- 192.168.1.128/26
- 192.168.1.192/26
Vậy ta dùng đường mạng 192.168.1.0/26 cho 50 PC.
Bước 3: Nếu ta lấy đường 192.168.1.64/26 cho 10 PC thì quá phí nên từ đường này ta quyết định chia nhỏ ra nữa.
Cách làm tương tự 2^x >= 10 suy ra x = 4. Ta cần 4 bit phần Host ID và dư 4 bit làm đường mạng nên có Subnet mask là 11111111.11111111.11111111.11110000 (255.255.255.240/28). Các đường mạng thu được.
- 192.168.1.64/28
- 192.168.1.80/28
- 192.168.1.96/28
- 192.168.1.112/28
- 192.168.1.128/28 do trùng với đường mạng lớn phía sau 192.168.1.128/26 nên bỏ và dừng lại.
Vậy ta sẽ dùng 192.168.1.64/28, 192.168.1.80/28 cho hai đường 10 PC. Ta lại còn lại 2 đường vừa chia không sử dụng mà nhu cầu của ta chỉ cần 1 đường mạng 2 PC nữa thui. Chọn 1 trong 2 đường tiếp tục chia nhỏ, s sẽ chọn 192.168.1.96/28
Với 2 PC ta cần 2 bit làm Host ID và dư 6 bit làm Network ID. Lúc này Subnet mask là 11111111.11111111.11111111.11111100 (255.255.255.252/30). Thực ra 2 PC chỉ cần 1 bit nhưng tối thiểu Host ID là 2 bit nên chọn 2 (Xem lại bài chia mạng con). Ta lại được các đường mạng sau
- 192.168.1.96/30
- 192.168.1.100/30
- 192.168.1.104/30
- 192.168.1.108/30 STOP!! Vì đường tiếp theo sẽ trùng.
Ta chọn 192.168.1.96/30 cho đường 2 PC vậy là ta đã chia subnet xong. Bây giờ bạn có thể yên tâm với các yêu cầu chi Subnet của xếp rồi nhé!
Mỗi một thiết bị mạng đều có 1 địa chỉ vật lý - MAC (Medium Access Control address) và địa chỉ đó là duy nhất. Các thiết bị trong cùng một mạng thường được dùng địa chỉ MAC để liên lạc với nhau tại tầng Data-link của mô hình OSI.
Trên thực tế, card mạng (NIC) chỉ có thể kết nối với nhau theo địa chỉ MAC. địa chỉ cố định và duy nhất của phần cứng. Do vậy ta phải có 1 cơ chế để chuyển đổi các dạng địa chỉ này để có thể liên lạc được với nhau. Từ đó ta có giao thức phân giải địa chỉ - Address Resolution Protocol (ARP).
Nguyên tắc hoạt động của giao thức phân giải địa chỉ ARP
- Trong một mạng LAN
Khi một thiết bị A muốn tìm hiểu, học 1 địa chỉ MAC của một thiết bị B nào đó mà nó đã biết địa chỉ ở tầng Network (IP,IPX...) thì nó sẽ gửi 1 ARP Request (Bao gồm: Địa chỉ MAC của A và địa chỉ IP của B) lên toàn bộ miền Broadcast.
Khi gửi thông điệp ARP theo dạng Broadcast thì tất cả các thiết bị trong mạng LAN đều nhận được và chúng sẽ so sánh địa chỉ IP trong ARP Request này với địa chỉ của tầng Network của nó khi đó:
- Nếu không trùng địa chỉ IP thì nó sẽ tự động Drop ARP Reques đó.
- Nếu trùng địa chỉ IP thì thiết bị đó phải gửi ngược lại cho thiết bị A môt gói tin có chưa địa chỉ MAC của mình. Sau khi máy A nhận được địa chỉ MAC của B rồi thì nó mới bắt đầu chuyển các Pakets (Gói tin) sang cho thiết bị B. và hoàn tất quá trình.
Trong hoạt động của ARP trong một một trường phức tạp hơn đó là 2 hệ thống mạng LAN gắn với nhau thông qua 1 router C.
Ta sẽ có các nguyên tắc sau:
- Do Broadcast không thể truyền qua 1 Router nên khi đó máy A sẽ xem C như là một cầu nối để truyền dữ liệu.
- Máy A sẽ biết địa chỉ của router C - Ở đây địa chỉ của C chính là Gateway
- Router C sẽ có 1 bảng định tuyến - Routing - Table
- Máy A sẽ truyền một ARP Request theo dạng Broadcast để tìm địa chỉ MAC của Port X
- Router C nhận được và cung cấp lại cho A một địa chỉ MAC của port X.
- Máy A truyền Packet đến port X của router C
- Router C nhận được packet. Trong Packet này chứa địa chỉ IP của máy B.
- Router C sẽ gửi ARP Request theo dạng Broadcast trong mạng của máy B để tìm địa chỉ MAC của B.
- Máy B nhận được và trả lời lại cho router biết địa chỉ MAC của mình.
- Sau khi nhận được địa chỉ MAC của máy B thì router sẽ gửi Packet đến máy B.
Như chúng ta biết thì nguồn tài nguyên Ipv4 đã cạn kiệt nhưng đến nay nó vẫn rất phổ biến. Trong khi đó, chẳng hạn như mỗi lớp mạng A có đến 224 – 2 = 16.777.214 địa chỉ IP hay lớp B có 216 – 2 = 65534 địa chỉ IP, một con số mà khó một hệ thống mạng nào đạt đến số lượng máy tính như thế. Điều này gây lãng phí không gian địa IP chỉ rất lớn. Do đó vấn đề đặt ra là phải chia từng lớp mạng này thành những lớp mạng nhỏ hơn có số IP phù hợp với nhu cầu sử dụng hợp lý. Sự phân chia này giúp người quản trị dễ dàng hơn trong việc quản lý, tiết kiệm địa chỉ IP, tránh đụng độ và bảo mật dữ liệu đồng thời giảm tải cho các thiết bị định tuyến đó là chia mạng con.
Xét về mặt thực tiễn ban đầu khái niệm chia mạng con (Subnetting) ra đời chủ yếu dùng để phân chia lớp mạng A và B, sau dần nó trở thành một bài toán lý thuyết mà tất cả các bạn học và làm nghề quản trị mạng phải biết.
Vậy chia mạng con (subnetting) là gì? Hiểu một cách nôm na chia mạng con là những kỹ thuật phân chia lại không gian địa chỉ của một lớp mạng cho trước thành nhiều lớp mạng nhỏ hơn bằng cách lấy một số bit ở phần Host ID để làm địa chỉ mạng cho mạng con (Subnet). Ví dụ với lớp B.
NET
|
WORK
|
SUBNET
|
HOST
|
Và để hiểu hơn về subnetting, trước hết chúng ta cần tìm hiểu vài khái niệm sau:
Prefix length: Là đại lượng, chỉ số bit dùng làm địa chỉ mạng. Chẳng hạn lớp C có Prefix length là 24. Với một địa chỉ IP tiêu chuẩn prefix length là giá trị sau dấu /. Chẳng hạn 192.168.1.1 /24. Ta có bảng tương ứng như sau:
Lớp
|
Prefix length
|
Địa chỉ IP tiêu chuẩn
|
A
|
8
|
10.10.10.10 /8
|
B
|
16
|
172.168.1.1 /16
|
C
|
24
|
192.168.1.1 /24
|
Default Mask (Network Mask): là giá trị trần của mỗi lớp mạng A, B, C (ở đây ta không xét các lớp D, E) và là giá trị thập phân cao nhất (khi tất cả các bit ở Network Address bằng 1 và các bit ở Host Address bằng 0). Như vậy Default Mask của
Lớp
|
Default Mask
|
Default Mask
|
A
|
255.0.0.0
|
11111111.00000000.00000000.00000000
|
B
|
255.255.0.0
|
11111111.11111111.00000000.00000000
|
C
|
255.255.255.0
|
11111111.11111111.11111111.00000000
|
Subnet Mask: Giá trị trần của mạng con, là giá trị thập phân tính khi tất cả các bit của prefix length bằng 1 và phần còn lại bằng 0. Chẳng hạn địa chỉ IP 172.16.1.46 /26 có Subnet Mask là 255.255.255.192 (11111111.11111111.11111111.11000000)
Subnet Address của một địa chỉ IP cho trước là giá trị nhỏ nhất của dải địa chỉ mạng con mà IP đó thuộc về. Các thiết bị định tuyến dựa vào địa chỉ này để phân biệt các mạng con với nhau. Giá trị của địa chỉ mạng có thể được tính bằng nhiều cách. Cách cơ bản nhất là dùng phép AND giữa địa chỉ Subnet Mask và IP dưới dạng nhị phân. Chẳng hạn với địa chỉ 172.16.1.224 /26
Subnet Mask | 11111111 | 11111111 | 11111111 | 11000000 |
IP Address | 10101100 | 00010000 | 00000001 | 11100000 |
AND | 10101100 | 00010000 | 00000001 | 11000000 |
Subnet Address | 172 | 16 | 1 | 192 |
Broadcast Address của một mạng con là địa chỉ IP cao nhất của mạng đó. Subnet Address và Broadcast Address không dùng để gán cho máy chủ và host. Vì vậy mới có công thức tính số IP khả dụng là 2n – 2 với n là số bit dùng cho Host Address.
Fixed length subnet mask (FLSM), là kỹ thuật chia mạng con theo độ dài subnet cố định dựa trên nhu cầu đường mạng Network ID. Cách chia này sẽ ít sử dụng nhưng nó đơn giản và cơ bản mà mình nghĩ chúng ta nên tìm hiểu qua.
Khái niệm cuối cùng và quan trọng nhất trong ứng dụng phân chia mạng con thực tiễn là VLSM (Variable Length Subnet Mask) là kỹ thuật sử dụng các Subnet Mask khác nhau để tạo ra các Subnet có lượng IP khác nhau. Với kỹ thuật này một quản trị mạng có thể chia mạng con với lượng IP phù hợp nhất với yêu cầu từng mạng, dễ dàng mở thêm các mạng con về sau này và nó tiết kiệm địa chỉ IP một cách tối đa nhất.
2. Chia mạng con theo phương pháp FLSM
Sau khi xác định network ID ở bài trước và tìm hiểu một số khái niệm liên quan đến kỹ thuật chia mạng con như trên, bây giờ Coj sẽ chia sẻ với các bạn cách chia mạng con (subnet mask) từ một mạng cho trước theo phương pháp Fixed length subnet mask(FLSM), nghĩa là chia theo độ dài subnet cố định dựa trên nhu cầu đường mạng Network ID. Cách chia này sẽ ít sử dụng nhưng nó đơn giản và cơ bản mà mình nghĩ chúng ta nên tìm hiểu qua.
START!!!
Chúng ta đã biết IP gồm 4byte được chia thành 3Class và đây là netmask mặc định của từng Class.Lớp | Dạng nhị phân | Netmask |
A | 11111111 00000000 00000000 00000000 | 255.0.0.0 |
B | 11111111 11111111 00000000 00000000 | 255.255.0.0 |
C | 11111111 11111111 11111111 00000000 | 255.255.255.0 |
Phân tích cấu trúc của địa chỉ 192.168.1.0 như sau:
+ Địa chỉ NetMask: 255.255.255.0 viết tắt /24
+ Dạng nhị phân: 11111111.11111111.11111111.00000000
+ Network ID: 11111111.11111111.11111111
+ HostID: 00000000
Xác định số Bit làm Network cần mượn.
Ta có công thức: 2x >= m (với m là số đường mạng cần chia, x là số bit cần mượn).
Ở đây 2x >= 4 vậy x=2. Ta sẽ mượn 2 bit ở phần HostID làm đường mạng. Sau khi mượn xong ta sẽ có Subnet mask cho các đường mạng con.
+ Địa chỉ SubNetMask: 255.255.255.192 viết tắt /26 (do mượn thêm 2 bit từ HostID)
+ Dạng nhị phân: 11111111.11111111.11111111.11000000
+ Network ID: 11111111.11111111.11111111.11
+ Host ID: 000000
Giải thích: Câu hỏi đặt ra là Subnet mask 255.255.255.192 ở đâu ra?
Ở đây ta đang xét đường mạng 192.168.1.0 thuộc lớp C. Do đó 3 byte đầu 255.255.255 ta không bàn tới vì nó là subnet mặc định của lớp C. (vì 8bit là 1 ~ 255) mà ta chỉ phân tích byte thứ 4. Do ta mượn thêm 2 bit làm NetworkID nên ở byte thứ 4 sẽ là 11000000. Theo bảng dưới ta có giá trị 192 = 128 + 64
Bit thứ
|
…
|
8
|
7
|
6
|
5
|
4
|
3
|
2
|
1
|
Giá trị Bit
|
…
|
1
|
1
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
Netmask
|
…
|
128
|
192
|
224
|
240
|
248
|
252
|
254
|
255
|
- Network ID: 192.168.1.0 Netmask: 255.255.255.192 (viết gọn 192.168.1.0/26)
Khoảng IP được sử dụng: 192.168.1.1 -> 192.168.1.62
- Network ID: 192.168.1.64/26
Khoảng IP được sử dụng: 192.168.1.65 -> 192.168.1.126.
- Network ID: 192.168.1.128/26
Khoảng IP được sd 192.168.1.129 -> 192.168.1.192.
- Network ID: 192.168.1.192/26
Khoảng IP được sd 192.168.1.193 -> 192.168.1.254
Lưu ý: Tối đa ta chỉ có thể mượn 6 bit để làm Network vì nhiều hơn thì số bit còn lại cho Host không đủ dùng. Mặc định mỗi Network đã tốn mất 2 IP để làm đường mạng và Broadcast ID. Số IP mỗi đường mạng là 2^6-2 = 62.Vậy nếu đường mạng thứ 3 ta chỉ cần 2 IP thì chia như vậy là quá phí. Để khắc phục ta sẽ chia mạng theo VLSM.
Chúng ta sẽ tìm hiểu về phương pháp chia mạng con VLSM ở bài tiếp theo. Coj mong các bạn chú ý theo dõi.